Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và hợp chuẩn đối với sản phẩm nông sản xuất khẩu có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Một số vụ hàng hóa nông sản, trái cây … của Việt Nam bị một số thị trường trả lại, trong đó có nguyên nhân do quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm, bảo quản hay do tác động từ môi trường đang gây ảnh hưởng đến kết quả chung của hoạt động xuất khẩu.
Trong khi đó, đa số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong ngành nông sản, thực phẩm chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hạn chế quy mô, vốn và công nghệ. Số lượng doanh nghiệp trong ngành chủ động tìm hiểu và có khả năng chuẩn bị cho hội nhập kinh tế chiếm tỷ lệ ít so với tổng doanh số doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu phù hợp tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nhập khẩu, thuoc thuy san cũng như các tiêu chuẩn để được hưởng ưu đãi từ Hiệp định thương mại còn hạn chế. Để cung cấp lượng nông sản, thực phẩm trên, trên địa bàn TP có 1.637 trang trại. Trong đó 147 trang trại tổng hợp, 1.346 trang trại chăn nuôi, 132 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, 11 trang trại trồng trọt… Về HTX sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, toàn TP hiện có 1.088 HTX, bao gồm 1.027 HTX Dịch vụ nông nghiệp, 23 HTX chăn nuôi; 09 HTX Thuỷ sản; 29 HTX trồng trọt (rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả…). Doanh thu bình quân trên 990 triệu đồng/HTX, thu hút khoảng 1,1 triệu xã viên. Với DN sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, Hà Nội hiện có trên 154.000 DN, là địa phương đứng thứ hai cả nước về số lượng DN. Trong đó có khoảng 1.150 DN hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Các DN kinh doanh nông sản thực phẩm chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, có tổng vốn kinh doanh thấp (tỷ lệ DN có vốn kinh doanh dưới 10 tỷ đồng trên 80%). Về hệ thống kênh phân phối nông sản thực phẩm, Hà Nội hiện có 425 chợ, trong đó có 15 chợ hạng một, 66 chợ hạng hai, 310 chợ hạng ba và 34 chợ chưa được phân hạng. Ngoài ra còn có 24 trung tâm thương mại, 136 siêu thị và trên 1.000 cửa hàng nông sản thực phẩm. Các hình thức cung cấp nông sản thực phẩm cho người tiêu dùng rất phong phú và đa dạng như chợ đầu mối, chợ dân sinh; siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích; cung cấp trực tiếp đến các bếp ăn tập thể; bán hàng online; bán hàng lưu động … Hiệu quả của công tác kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa caống thống bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm chưa tối ưu, cùng với đó, năng lực cán bộ còn hạn chế; công tác tập huấn, đào tạo phổ biến, tuyên truyền chính sách về an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân của vấn đề chính sách an toàn thực phẩm chưa đạt được hiệu quả cao nhất, theo ông Hiến, nguyên nhân chủ yếu là do việc rà soát còn hạn chế nên tính thống nhất trong một số quy định pháp luật chưa đảm bảo; hoạt động bàn hành các văn bản dưới luật chưa kịp thời gây khó khăn trong việc thực thi. Việc phối hợp giữa các Bộ, thuốc thuỷ sản ngành trong công tác ban hành chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt, công tác nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược vệ sinh an toàn thực phẩm; công tác quy hoạch các vùng sản xuất thực phẩm an toàn, công tác quy hoạch các vùng sản xuất thực phẩm an toàn, cảnh báo, kiểm soát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm … chưa được trú trọng đúng mức và công tác phân tích đánh giá chính sách chưa được trú trọng.
0 Comments
Leave a Reply. |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |