Ukraine đang được coi là thị trường mới nổi nhờ mức tăng trưởng kinh tế cao. Với thế mạnh về công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng. Ukraine có nhu cầu nhập khẩu nhiều hàng hóa tiêu dùng, thuoc thuy san nhất là nông thủy sản. Đây sẽ là một trong những thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của các doanh nghiệp Việt Nam nếu biết cách tiếp cận thị trường.
Đến nay, Việt Nam và Ukraine đã ký hơn 20 hiệp định hợp tác kinh tế-thương mại trên nhiều lĩnh vực quan trọng như vận tải biển, vận chuyển hàng không... Nhờ đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Ukraine đã tăng lên đáng kể. Hiện kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt khoảng 2,4 tỷ USD. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Ukraine chủ yếu là là hải sản, dệt may, giày dép, mũ, thủ công mỹ nghệ... Tổng quan thị trường thủy sản Ucraina Tính đến đầu năm nay, vốn đầu tư của Ukraine vào Việt Nam gần 400 triệu USD, hết năm nay con số này có thể sẽ lên tới 600 triệu USD. Hiện, Ukraine có 12 dự án đầu tư tại Việt Nam còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 27 triệu USD, đứng thứ 60 trong số 98 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Ông Oleksiy Shovkoplias, Đại sứ Ukraine tại Việt Nam cho biết: “Dù thực tế hiện nay Ukraine và Việt Nam có khoảng cách địa lý cách xa nhau, nhưng với doanh nghiệp Ukraine, Việt Nam vẫn là đối tác ổn định, tin cậy. Năm 2012 doanh thu chung về hàng hóa và dịch vụ của hai nước đạt 456 triệu USD, 2011 là 324,5 triệu USD, tăng hơn 131,5 triệu USD, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đạt hơn 320 triệu USD, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đạt 324 triệu USD, tăng 50%”. Qui mô, cấu trúc và xu hướng thị trường Năm 2006, nhập khẩu thuỷ sản của Ucraina chiếm trên 65% với 314.000 tấn cá và 18.000 tấn thuỷ sản khác. Trong khi đó, sản lượng khai thác của Ucraina đạt thấp và ngày càng giảm do phạm vi khai thác hạn chế. Ngoài ra, một số loài thuỷ sản khai thác quen thuộc với người dân thì lại có chất lượng thấp và thường không thích hợp cho chế biến. Những yếu tố này khiến Ucraina ngày càng phụ thuộc vào nguồn thuỷ sản nhập khẩu. Phương thức này sẽ tiếp tục kéo dài trong vài năm tới do qui trình chứng nhận vệ sinh mất nhiều thời gian và sự dè dặt của người tiêu dùng ở Ucraina trong việc chi trả cho các sản phẩm thủy sản có giá quá cao. Tuy nhiên, dự kiến 1-2 năm tới, nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản cao cấp sẽ tăng bởi những người có thu nhập cao tăng lên và họ sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm này. Nhiều nhà nhập khẩu Ucraina đang đầu tư nâng cấp hệ thống kho lạnh do vậy doanh số bán thuỷ sản tại các khu đô thị lớn sẽ bình ổn hơn trong một vài năm tới. Chiến lược thâm nhập thị trường Chiến lược thâm nhập thị trường duy nhất có thể áp dụng đối với các nhà cung cấp mới là liên hệ và hợp tác với một nhà nhập khẩu Ucraina. Đây là chiến lược mà tất cả các nhà cung cấp Châu Âu và Châu Mỹ đều áp dụng. Các mối quan hệ cá nhân đóng vai trò rất quan trọng ở Ucraina. Các thủ tục nhập khẩu rất rườm rà và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, nếu liên hệ với một nhà nhập khẩu, họ sẽ có trách nhiệm giải quyết mọi thủ tục hậu cần, vận chuyển và phân phối trong nước. Tiêu thụ Từ giữa những năm 90, Ucraina chỉ nhập khẩu các loại cá song và cá trích rẻ tiền. Tiêu thụ thuỷ sản đã giảm mạnh từ 18 kg vào cuối những năm 80 xuống còn 3,5 kg năm 1994. Tuy nhiên, tiêu thụ thuỷ sản của Ucraina đang dần tăng lên. 75% thủy sản nhập khẩu của Ucraina là để chế biến, trong đó chủ yếu là các loài cá đáy nhập khẩu như cá trích, cá sòng và cá sácđin. 10% tiêu thụ nội địa với các loài phổ biến như cá minh thái và các loài cá tuyết. Mặc dù có sự chuyển dịch thị trường sang các sản phẩm chất lượng cao nhưng hiện nay, Ucraina vẫn tiếp tục nhập khẩu các loại cá trích giá rẻ, surimi và một số loài “bình dân” khác. Cơ chế thương mại và tiếp cận thị trường Rào cản thuế quan: + Thuế môn bài đối với hàng hóa nhập khẩu: nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách hoặc bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Mức thuế môn bài giữa Việt Nam và Ucraina thường không cao và không hạn chế được nhiều việc xuất nhập khẩu giữa 2 nước. Các rào cản phi thuế quan : Trong khi môi trường kinh doanh đang được cải thiện ở Nga và Ukraine, thì một số hàng rào phi thuế quan vẫn còn cản trở hoạt động thương mại và đầu tư. + Hệ thống cấp phép- các giấy phép về xuất nhập khẩu, giấy phép về các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, an toàn sản phẩm… của Ucraina rất phức tạp và gây trở ngại cho doanh nghiệp. + Hệ thống hải quan thường gây khó khăn trong việc kiểm tra hàng hóa và chậm trễ trong việc kiểm tra, doanh nghiệp thường mất nhiều chi phí để thông quan. Hạn ngạch nhập khẩu: - Thông thường, hạn ngạch nhập khẩu ngăn chặn hiệu quả hơn hoạt động thương mại quốc tế thông qua thuế quan. Mặc dù thuế cao nhưng một số mặt hàng vẫn được nhập khẩu với số lượng tương đối lớn. Một số mặt hàng hạn chế hạn ngạch của Ucraina là rượu, cây mía nguyên liệu, vàng, bạc…. + Việt Nam chưa có mặt hànng nào xuất khẩu năm 2010 cần phải có hạn ngạch sang Ucraina Chống bán phá giá và đối kháng(antisubsidiarnye - được sử dụng để bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu được trợ cấp) và hàng rào bảo vệ - được thiết lập trong quan hệ với tất cả các nước xuất khẩu có sản phẩm cạnh tranh trong một thời gian không quá 4 năm) : thuế được xác định theo nhóm, như các công cụ của chính sách thương mại kết hợp các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thực tế, mức thuế suất này ( trừ thuế suất bảo hộ) được quy định cho từng trường hợp riêng biệt, đối với một mặt hàng các đối tượng khác nhau vẫn chịu các mức thuế khác nhau ( phân biệt theo đối tượng: cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp quốc doanh, tập đoàn..). Thỏa thuận của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong đó áp dụng các mức thuế khác nhau đối với các nước phát triển và đang phát triển. Ucraina có Uỷ ban về Thực tiễn chống bán phá giá Ngày 25.07.2006 Hải quan của Ucraina có thông tư về các biện pháp chống bán phá giá Ucraina áp dụng các biện pháp chống bán phá giá vào việc xuất khẩu điện cho Bulgaria, Moldova, Ba Lan, Romania, Tiếng Slovak Republic, Cộng hòa Séc và Hungary. Ucraina có Thông tư bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá từ các nước thứ ba không phải là thành viênCộng đồng Châu Âu. Hiệp định này áp dụng cho Việt Nam. Tự nguyện hạn chế xuất khẩu (DEO)- là một hình thức tương đối mới rào cản thương mại. Chủ yếu được sử dụng trong quy chế của chính sách thương mại Hoa Kỳ. Có sự thỏa thuận dài hạn của nước nhập khẩu với các nước cung cấp, thuốc thuỷ sản xác định số lượng vật tư, giá các sản phẩm cung cấp. DEO là tính năng mà các nước cung cấp hàng tự chấp nhận những hạn chế, như một quy luật. Ucraina chưa áp dụng hình thức rào cản này.
0 Comments
Theo một báo cáo của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia, thuoc thuy san sản lượng thủy sản nước ngọt tăng 13.200 tấn lên 61.700 tấn trong khi sản lượng khai thác biển tăng 1.125 tấn lên 10.025 tấn.
Tuy nhiên, XK trong 11 tháng đầu năm lại giảm, với khối lượng cá tươi sống XK là 8.200 tấn, giảm 300 tấn; và khối lượng cá chế biến XK là 4.600 tấn, giảm 100 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng doanh thu XK đạt được ở mức 500.000 USD, giảm 350.000 USD so với năm ngoái. Nguyên nhân XK giảm là do các công ty thủy sản của Campuchia chưa đáp ứng nhu cầu cá cỡ lớn của các thị trường XK. Các số liệu cho thấy, sản lượng cá thu được tuy lớn nhưng đây chủ yếu là cá cỡ nhỏ và rất ít cá cỡ lớn. Ngoài ra, nhu cầu về các sản phẩm cá nói chung không quá mạnh mẽ nên đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến XK nước này giảm. Thủy sản Campuchia, trong ba tháng đầu năm 2014, xuất khẩu thủy sản của Campuchia tăng nhẹ. Xuất khẩu cá đạt 4.800 tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó gồm 3.100 tấn cá tươi và 1.700 tấn sản phẩm chế biến và thu về được hơn 3,5 triệu USD từ xuất khẩu cá. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, con số này không phản ánh tiềm năng thực sự của ngành thủy sản Campuchia. Ông Som Nouv, nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý Thủy sản cho rằng, sự gia tăng sản lượng Xuất khẩu vẫn còn thấp (300 tấn) và không nói lên điều gì về sự tăng trưởng của ngành thương mại thủy sản. Om Savath, Giám đốc Điều hành Nhóm Liên minh Hành động Nghề Cá, cho biết, những con số không như kỳ vọng là kết quả của luật pháp kém hiệu lực trong việc ngăn chặn đánh cá bất hợp pháp. Thị trường xuất khẩu thủy sản của Campuchia chủ yếu là Úc, Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Singapore và Hồng Công. Tháng trước, Liên minh Châu Âu đã có lệnh cấm nhập khẩu cá từ Campuchia nhằm trừng phạt Campuchia đã thất bại trong việc kiểm soát đánh bắt cá bất hợp pháp. Campuchia có thể đã giành được rất nhiều thu nhập bằng cách xuất khẩu các sản phẩm cá vào EU mà không phải trả thuế. Ông Som Nouv cho biết, vào thời điểm hiện tại, thuốc thuỷ sản thú y các tàu đánh cá mà EU nghi ngờ đánh bắt cá bất hợp pháp trên vùng biển Campuchia không phải của Campuchia. Yêu cầu EU phải điều tra các tàu thuyền đánh bắt cá bất hợp pháp treo cờ của Campuchia để dỡ bỏ lệnh trừng phạt. Trước đây, thuoc thuy san các loài cá đáy chiếm lĩnh thị trường cá thịt trắng thế giới nhưng hiện tại tiêu thụ các loài này phải cạnh tranh mạnh mẽ với một số loài thủy sản nuôi. Đặc biệt là các loài cá thịt trắng nuôi, lựa chọn thay thế có giá thấp hơn như cá rô phi và cá tra, đã bước vào thị trường cá thịt trắng truyền thống và đang dần tạo được vị trí đối với người tiêu dùng. Trong đó, thị trường NK cá tra, chủ yếu là từ Việt Nam, đang ngày càng tăng. Nhu cầu ổn định từ các thị trường trên thế giới đối với loài có giá tương đối thấp như cá tra sẽ thúc đẩy sản lượng ở các nước sản xuất XK tăng, đặc biệt là châu Á. Trong 2 năm qua, nhu cầu mặt hàng này vẫn khá mạnh tại Mỹ, thị trường NK lớn nhất, cũng như ở châu Á và châu Mỹ Latinh. Ngược lại, NK vào các thị trường lớn khác như EU, có xu hướng giảm.
Cá rô phi đã trở thành loài cá nuôi lớn thứ hai trên thế giới sau cá chép. Cá rô phi được sản xuất tại hơn 140 quốc gia với sự phổ biến rộng rãi so với các loài nuôi khác. Các nước sản xuất cá rô phi lớn nhất thế giới bao gồm Trung Quốc, Ai Cập, Philippines, Thái Lan, Indonesia, Mỹ Latinh, Ghana. Trong đó, Indonesia có mức tăng trưởng lớn trong sản xuất trong những năm gần đây. Trung Quốc duy trì là nước sản xuất lớn nhất về mặt hàng này. Ngoài ra, những nước khác cũng cho thấy mức tăng trưởng nhanh trong sản xuất như Haiti, Myanmar (Miến Điện) và Pakistan. Trong năm 2014 và năm 2015, một số quốc gia như Bangladesh, Mexico, Ai Cập, và Brazil mở rộng sản xuất bằng việc xây dựng thêm nhiều trang trại và tăng năng suất cao hơn. Sản lượng cá rô phi toàn cầu năm 2015 ước tính đạt 5.576.800 tấn. Trung Quốc tiếp tục giữ vị trí là nhà sản xuất cá rô phi hàng đầu với sản lượng 1.800.000 tấn năm 2015. XK cá rô phi của Trung Quốc sang Mỹ năm 2015 có xu hướng giảm, nhưng XK sang tiểu vùng Sahara châu Phi và Trung Đông lại tăng đáng kể. Trong năm 2015, Indonesia vươn lên vị trí là nhà sản xuất lớn thứ hai với sản lượng hơn 1.100.000 tấn. Ai Cập giảm xuống vị trí thứ ba dù sản lượng cá rô phi tăng lên 800.000 tấn trong năm 2015. XK của Indonesia tăng không nhiều nhưng nhu cầu trong nước tăng trưởng đáng kể. Việt Nam cũng tăng sản lượng đáng kể (150.000 tấn), phần lớn sự tăng trưởng dựa trên sự kết hợp nuôi lồng và hệ thống ao nuôi ghép với tôm biển để giảm tính độc của hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính AHPNS,thuốc thuỷ sản thú y bệnh đốm trắng và các ký sinh trùng khác. Lệnh cấm NK thủy sản của Nga áp đặt cho Mỹ và châu Âu dẫn đến XK cá rô phi và cá tra từ Việt Nam sang Nga tăng đáng kể. Các nước như Thái Lan, Myanmar và Philippines chủ yếu tiêu thụ cá rô phi từ nguồn nuôi trong nước. Trung Quốc sẽ giảm thuế nhập khẩu từ 3% đến 7% trên 10 sản phẩm hải sản khác nhau, thuốc thuỷ sản hóc môn giúp các nhà nhập khẩu Trung Quốc có thể tiết kiệm được hàng triệu đô la tiền thuế nhập khẩu mỗi năm. Chi phí nhập khẩu thấp sẽ là động lực thúc đẩy tăng nhu cầu đối với hải sản ngoại nhập trong bối cảnh người tiêu dùng Trung Quốc đang bắt đầu tiết kiệm chi tiêu.
Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MofC), biểu thuế mới sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2017. Biểu thuế này sẽ được áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng mức thuế ưu đãi của Trung Quốc do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như chưa có hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc. Theo MofC, việc giảm thuế này của Trung Quốc chỉ mang tính chất tạm thời và mức thuế có thể trở lại mức cũ bất cứ lúc nào.MofC cho biết Trung Quốc quyết định giảm thuế nhập khẩu tạm thời do nước này đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn cung hải sản. Cá minh thái Các nhà nhập khẩu cá minh thái (mã HS 030.367) là các đối tượng nhận được lợi ích lớn nhất từ việc giảm thuế quan. Theo Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), năm 2015, Trung Quốc đã nhập khẩu 740 triệu USD cá minh thái, đưa nước này lên vị trí nước nhập khẩu cá minh thái lớn nhất thế giới. Thuế nhập khẩu cá minh thái sẽ được giảm từ 10% xuống 5%. Hầu hết cá minh thái nhập khẩu là cá đã qua xử lý và sau đó tái xuất khẩu, do đó ngay từ đầu mặt hàng này đã không bị tính thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, thị trường cá thịt trắng trong nước của Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng. Một số nhà tái chế biến thủy sản lớn nhất của Trung Quốc cho biết họ bán nhiều hơn 50% các sản phẩm cá thịt trắng cho thị trường trong nước. Các loại cá thịt trắng đông lạnh nhập khẩukhác được hưởng lợi từ việc giảm thuế quan gồm có cá tuyết (2%), cá trích (2%), cá chim (2%), cá bơn Đại Tây Dương (5%) và các loại cá hố (5%). Cá tuyết, cá trích, cá chim, cá bơn Đại Tây Dương đã được “tạm thời” giảm thuế nhập khẩu trong suốt 5 năm qua tại Trung Quốc. Cá ngừ Thuế nhập khẩu của 6 loại cá ngừ đông lạnh được giảm từ ngày 01/01/2016. Thuế quan đối với cá ngừ vây dài, cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to, cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương, cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương và cá ngừ vây xanh miền Nam sẽ được giảm từ 12% đến 6%. Các đội tàu đánh cá Trung Quốc đã đánh bắt một lượng cá ngừ đáng kể, và số cá này ngày càng được bán nhiều hơn tại các cảng ở Trung Quốc chứ không còn là ở các cảng Bangkok, với mục đích cung cấp cho thị trường trong nước và quá trình xuất khẩu. Các công ty nước ngoài đang có ý định xuất khẩu cá ngừ sang Trung Quốc sẽ được hưởng lợi từ việc giảm thuế này. Quyết định giảm thuế đối với cá ngừ nhập khẩu của Trung Quốc ra đời trong bối cảnh các công ty thủy sản nước ngoài đang có một loạt giao dịch và kế hoạch giới thiệu sản phẩm mới nhắm vào thị trường Trung Quốc, mặc dù hầu hết các sản phẩm trên đều là cá ngừ đóng hộp, chứ không phải cá ngừ đông lạnh. Theo ITC, năm 2015, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 30 triệu USD cá ngừ đông lạnh, trong đó có 23 triệu USD cá ngừ vây vàng đông lạnh. Tôm nước lạnh Thuế nhập khẩu đối với tôm nước lạnh miền Bắc (pandalus borealis) (mã HS 03.061.612)cũng được giảm từ 5% xuống 2%bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Mặc dù mức thuế được giảm không nhiều, nhưng các nhà nhập khẩu vẫn sẽ tiết kiệm được một lượng chi phí đáng kể vì theo ITC, Trung Quốc là nước nhập khẩu tôm nước lạnh miền Bắc lớn nhất thế giới, với tổng lượng tôm nước lạnh miền Bắc nhập khẩu năm 2015 đạt trị giá 162 triệu USD. Các nhà cung cấp Canada sẽ được hưởng lợi ích nhiều nhất từ việc giảm thuế của Trung Quốc vì nước này là nhà cung cấp tôm nước lạnh chính cho Trung Quốc, với giá trị tôm nước lạnh xuất khẩu vào Trung Quốc năm 2015 đạt trị giá 104 triệu USD. Cua (đông lạnh và không đông lạnh) Thuế nhập khẩu đối với cua đông lạnh (mã HS 03.061.490) cũng giảm từ 10% xuống 5%, giúp các nhà cung cấp Mỹ và Canada đạt được lợi ích lớn tại thị trường Trung Quốc. Các loại cua được giảm thuế gồm cua hoàng đế vàng đông lạnh và một số loại cua hoàng đế khác. Tuy nhiên, việc giảm thuế không bao gồm đối với cua Dungeness và cua Tuyết. Theo ITC, trong năm 2015, Trung Quốc nhập khẩu tổng cộng 171 triệu USD cua hoàng đế đông lạnh, hầu hết cua được nhập khẩu từ Canada (90 triệu USD) và Mỹ (40 triệu USD). Hầu hết cua nhập khẩu sẽ được đem đi chế biến và sau đó xuất khẩu, do đó hầu hết đều được miễn thuế nhập khẩu. Trung Quốc cũng sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với cua sống (HS 03.063.399) từ 14% xuống 7%. Điều này sẽ mang lại lợi ích lớn cho các nhà nhập khẩu Trung Quốc, vì hầu như tất cả cua sống nhập khẩu đều được tiêu thụ tại thị trường nội địa Trung Quốc.Theo MofC, sản phẩm mang mã HS 03063399 có định nghĩa là "cua hoàng đế vàng còn sống". Theo ITC, trong năm 2015, Trung Quốc nhập khẩu311 triệu USD đối với cua thuộc mã HS 03.062.499. Trong đó 2 nguồn cung lớn nhất của Trung Quốc là Canada (76 triệu USD) và Mỹ (41 USD). Tôm và tôm hùm Năm 2015, MofC giảm thuế đối với tôm hùm đá không đông lạnh (mã HS 03.062.190) và tôm hùm châu Mỹ không đông lạnh (mã HS 03.062.290) từ 15% xuống 10%. Năm 2015, lượng tôm hùm đá và tôm hùm châu Mỹ không đông lạnh nhập khẩu vào Trung Quốc đạt trị giá 342 triệu USD và 187 triệu USD. New Zealand là nhà cung cứng tôm hùm đá lớn nhất của Trung Quốc, với giá trị xuất khẩu là 219 triệu USD. Tôm hùm nhập khẩu từ New Zealand vào thị trường Trung Quốc được hưởng thuế quan bằng 0 vì giữa 2 nước có hiệp định thương mại tự do. Canada và Mỹ cũng là 2 nguồn cung ứng lớn, với giá trị xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc năm 2015 là 102 triệu USD đối với tôm hùm đá và 84 triệu USD đối với tôm hùm châu Mỹ Tuy nhiên, thuoc thuy san cu chi do hải quan Trung Quốc vốn có "lịch sử" áp dụng các quy định nhập khẩu khá rắc rối và hỗn loạn, vì vậy các nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu nên tìm hiểu kỹ định nghĩa của từng mã HS và biểu thuế mới dành cho các mã HS đó trước khi xuất nhập khẩu hải sản đến Trung Quốc. Xem thêm: http://thienquanjsc.com/san-pham/nguyen-lieu-thuoc-thu-y-thuoc-thu-y-thuy-san-hoa-chat/11/1/04 Seafood xu hướng nhập khẩu của các thị trường Úc trong thời gian tới.
Đối với cá nhập khẩu phải nói rằng nhập khẩu tại Úc chỉ có 10 nước trên thế giới. Và điều đáng nói là Úc có xu hướng giảm trên thị trường, thuốc thuỷ sản và đó là Úc cũng nhập khẩu từ các nước có thị trường lớn. Đây là cơ hội để Việt Nam hợp tác với Úc, vì nước ta là một đất nước được coi là nhà cung cấp hàng đầu của thị trường tôm. 1. Bán sản phẩm đã tăng lên nhanh chóng. Ở Úc, trong 3 thập kỷ chúng ta có thể nói nhu cầu thủy sản đang tăng lên đáng kể. Theo bộ phận thống kê, ông cho biết tiêu thụ thủy sản của Úc nổi tiếng trong 2012 -2013, với 15kg hải sản / người tiêu thụ phương tiện truyền thông, so với năm trước tăng hơn 10 kg, tức là trong năm 2000-2001 . Một năm của trái cây tiêu thụ biển Úc khoảng 1000.000 tấn / năm, ngoài số lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đạt 220.000-280.000 tấn / năm, đưa nước này cần nhập khẩu nhiều cá hơn để đáp ứng nhu cầu trong nước. 2011 2012 2013 2014 2015 nhập khẩu Úc 867.413 1.726.804 1.819.539 1.903.734 1.593.393 xuất khẩu của Úc 952,360 1.083.884 1.081.603 1.195.669 1.147.833 Đơn vị: nghìn USD Hơn nữa, nơi dân số đang tăng lên đáng kể, và nó cũng có nghĩa là tiêu thụ cá cũng tăng lên, cũng như sẽ được gia tăng nhập khẩu cá ở đất nước này. Úc là một đất nước với hàng nhập khẩu chiếm 49%, nhưng 22% của ngành thủy sản trong tổng khối lượng nhập khẩu, bạn có thể nói xuất khẩu thủy sản ở Úc có thấp hơn% so với nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước úc , nhập khẩu hàng năm bằng 70% khooang 2. Các xu hướng ngày càng tăng của các nhà nhập khẩu cá ở châu Á Xuất khẩu chiếm 50% sản phẩm của nước này chủ yếu là cho các sản phẩm trong nước. Nhưng đất nước này là một quốc gia với việc nhập khẩu các loại trái cây cầu biển cao, nhưng hầu hết hải sản là giá rẻ, chủ yếu là ở châu Á, nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác, các nước châu Á được biết đến là rất phát triển của nước nuôi trồng thủy sản, và cũng là nguồn cung cá chủ yếu tại Úc. ba nước là Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam là gì. 3. sản xuất thủy sản không đáp ứng được nhu cầu. Nhìn chung, nhu cầu thủy sản tại Úc đã vượt quá sản xuất. Mặc dù nó luôn luôn đẩy các nước trong nuôi trồng thủy sản, nhưng vì số lượng cá thực hiện bằng tổng khối lượng giảm mạnh câu cá, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trong những năm này, cả nước đã đưa ra nhiều biện pháp để các khu vực trọng điểm nghề cá sẽ được chuyển giao cho chính phủ, giảm tần số của một lệnh khác để bảo tồn nguồn lợi thủy sản tự nhiên. 4. tôm nguyên liệu tiếp tục dẫn trước. Tôm là nguyên liệu được nhập khẩu chủ yếu tại Úc, một tỷ lệ rất cao. tôm nguyên liệu đông lạnh (HS030617) là đại diện cho phần lớn nhất, chiếm 82,2% về số liệu thống kê Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), còn lại là cua và các sản phẩm khác. Trong 5 năm qua, nhập khẩu tôm đông lạnh ngày càng có khả năng đạt 7,5-37%. Hiện nay, Mỹ nhập khẩu tôm đông lạnh từ 50 quốc gia trên toàn thế giới, thậm chí Úc đã có 10 quốc gia trên toàn thế giới. Và điều đáng nói là Úc có xu hướng giảm trên thị trường, và đó là Úc cũng nhập khẩu từ các nước có thị trường lớn. Đây là cơ hội để Việt Nam hợp tác với Úc, thuoc thuy san vì nước ta là một đất nước được coi là nhà cung cấp hàng đầu của thị trường tôm. Trong phân tích toàn cầu về thái độ và hành vi của người tiêu dùng thủy sản, thuốc thủy sản 75% người Australia cho biết các loại cá nhỏ chứa ít thuỷ ngân hơn các loại cá lớn. Và các công ty thường sử dụng các loại cá nhỏ để đóng hộp. Do đó, xét về nồng độ thủy ngân, có thể cá đóng hộp an toàn hơn. Đây là dữ liệu mới nhất được đưa ra bởi tổ chức phi lợi nhuận Hội đồng Quản lý Biển (MSC).
Cá hộp có ưu điểm là rẻ, sẵn có lại tiện dụng. Nhưng nhiều người tiêu dùng băn khoăn liệu khi đóng hộp, loại thủy sản này có tốt như cá tươi hay không? Cá đóng hộp rẻ hơn, dễ sử dụng và thời gian bảo quản lâu hơn. Nhưng đồ hộp lại có hàm lượng sodium (muối natri) cao hơn cá tươi. Nhiều sodium quá sẽ gây ra nhiều bệnh tật trong đó có bệnh cao huyết áp. Thêm nữa, nhiều người đơn giản là thích đồ tươi hơn. Nhu cầu về các sản phẩm được chứng nhận ngày càng tăng, và người tiêu dùng càng quan tâm hơn nữa về vấn đề truy xuất nguồn gốc của thực phẩm họ mua. Ở Australia, đa số người dân mua cá và các sản phẩm thủy sản tại các siêu thị, trong đó chủ yếu là từ các siêu thị lớn như Coles, Woolworths, ALDI và IGA. Coles cho biết, nhu cầu về thủy sản bền vững tăng mạnh trong năm qua, với một số loài phổ biến là tôm sú và cá hồi salmon. Cá đóng hộp thường được chế biến từ cá biển. Do đó, nó "tự nhiên" hơn là cá nuôi. Theo một số cuộc khảo sát, nhiều loại cá nuôi sống trong môi trường nước ô nhiễm, chứa nhiều chất có hại cho cơ thể. Ngoài ra, xương của nhiều loại cá đóng hộp, như cá mòi thường được nấu mềm. Nhờ vậy, chúng ta ăn được cả phần xương cá, lượng canxi nạp vào cơ thể sẽ cao hơn. Hàm lượng thuỷ ngân trong cá cũng là mối quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng, đặc biệt là các thai phụ. Người tiêu dùng Australia có xu hướng tiêu thụ các sản phẩm thủy sản đóng gói nhiều hơn. Hơn nữa, thủy sản tươi sống tại đây luôn ở mức giá cao. Hơn 20.000 sản phẩm thủy sản trên thế giới mang nhãn MSC. Tại siêu thị Aldi của Đức, chứng nhận MSC được áp dụng cho tất cả các thủy sản đông lạnh và đóng gói từ năm 2009. Đầu năm nay, MSC đã cho biết khoảng 30% sản lượng thủy sản trên thế giới vẫn còn dán nhãn sai. Sản phẩm từ chuỗi này sẽ phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước và hướng tới XK. Đầu tháng 12 này, Cty TNHH De Heus (Bình Dương) và Cty TNHH Thương mại Xuất khẩu tổng hợp và Dịch vụ Hùng Nhơn (Bình Phước) đã ký bản ghi nhớ về Chương trình hợp tác chuỗi thực phẩm sạch, an toàn và truy xuất nguồn gốc (gọi tắt là Chương trình). Mục đích của hợp tác là 2 công ty cùng nhau xây dựng và phát triển một chuỗi chăn nuôi khép kín từ giai đoạn con giống đến thành phẩm, thông qua Dự án Thung Lũng Thực Phẩm An Toàn,thuốc thuỷ sản thực hiện trên địa bàn các tỉnh Bình Phước và Đồng Nai.
Chương trình còn có sự tham gia, đồng hành của một số công ty khác như Bel Gà (chuyên cung cấp con giống), Fresh Studio Innovations Asia (chuyên tư vấn quản lý thực phẩm sạch)… Mục tiêu cuối cùng trong chuỗi liên kết, trị giá tới 50 triệu USD, tương đương hơn 1.200 tỷ đồng, là tạo ra mỗi năm hơn 3 triệu con gà thịt, 1 triệu con gà đẻ, 1.600 con heo nái và 15.000 con heo thịt mỗi năm. Ngoài ra, toàn bộ nguồn phân thải ra trong quá trình chăn nuôi được sử dụng làm nguyên liệu chế biến phân hữu cơ để sản xuất rau củ, cung ứng cho thị trường khoảng 900 tấn mỗi năm. Trao đổi với báo giới mới đây, ông Vũ Mạnh Hùng, giám đốc công ty Hùng Nhơn (Bình Phước), doanh nghiệp Việt Nam duy nhất trong chuỗi liên kết này, cho biết, đây là một dự án gồm nhiều trang trại tại nhiều nơi và cũng có nhiều đơn vị tham gia, trong đó có các đơn vị về sản xuất con giống như Bel Ga của Bỉ, đơn vị về cung cấp thức ăn chăn nuôi De Heus (Hà Lan), đơn vị chuyên về xây dựng hệ thống trang trại (Hùng Nhơn) và các công ty về đầu ra như đơn vị giết mổ, phân phối sản phẩm. De Heus, ngoài vai trò là nhà cung cấp thức ăn chăn nuôi, bằng kinh nghiệm quản lý chuỗi đến từ quốc gia châu Âu, doanh nghiệp này sẽ là cầu nối, người điều hành chuỗi liên kết này. Với vai trò đầu tàu, chịu trách nhiệm chăn nuôi, xây dựng thương hiệu, phân phối sản phẩm, theo ông Vũ Mạnh Hùng, dự án này có tính khả thi cao vì nó được xây dựng trên nền tảng “kiềng bốn chân”. Các bên tham gia, bằng kinh nghiệm của mình, sẽ phát huy hết khả năng vốn có. Như Hùng Nhơn chẳng hạn, ông Hùng khẳng định công ty mình có kinh nghiệm trong chăn nuôi công nghiệp, đang có số trang trại gà đứng tốp đầu tại Việt Nam với hơn 360.000 con mỗi lứa, cùng hệ thống trang trại heo hàng trăm ha ở Bình Phước và Đồng Nai. Tất cả hệ thống trang trại của Hùng Nhơn được đầu tư đồng bộ bằng công nghệ tiên tiến, vận hành hoàn toàn tự động. Sau này, dự kiến là đến giữa năm 2017 có sản phẩm thịt gà đầu tiên ra thị trường, thuoc thuy san Hùng Nhơn trực tiếp đưa vào giết mổ và xây dựng thương hiệu cung cấp đến người tiêu dùng. Với tổng giá trị đầu tư dự kiến là 50 triệu USD (tương đương với 1.200 tỷ đồng), Chương trình đặt ra các mục tiêu dự kiến về sản lượng như sau: 3 triệu con gà thịt và 1 triệu con gà đẻ; 1.600 con heo nái và 15.000 con heo thịt/năm; sản xuất, cung cấp rau củ quả với sản lượng 900 tấn/năm. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và hợp chuẩn đối với sản phẩm nông sản xuất khẩu có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Một số vụ hàng hóa nông sản, trái cây … của Việt Nam bị một số thị trường trả lại, trong đó có nguyên nhân do quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm, bảo quản hay do tác động từ môi trường đang gây ảnh hưởng đến kết quả chung của hoạt động xuất khẩu.
Trong khi đó, đa số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong ngành nông sản, thực phẩm chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hạn chế quy mô, vốn và công nghệ. Số lượng doanh nghiệp trong ngành chủ động tìm hiểu và có khả năng chuẩn bị cho hội nhập kinh tế chiếm tỷ lệ ít so với tổng doanh số doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu phù hợp tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nhập khẩu, thuoc thuy san cũng như các tiêu chuẩn để được hưởng ưu đãi từ Hiệp định thương mại còn hạn chế. Để cung cấp lượng nông sản, thực phẩm trên, trên địa bàn TP có 1.637 trang trại. Trong đó 147 trang trại tổng hợp, 1.346 trang trại chăn nuôi, 132 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, 11 trang trại trồng trọt… Về HTX sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, toàn TP hiện có 1.088 HTX, bao gồm 1.027 HTX Dịch vụ nông nghiệp, 23 HTX chăn nuôi; 09 HTX Thuỷ sản; 29 HTX trồng trọt (rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả…). Doanh thu bình quân trên 990 triệu đồng/HTX, thu hút khoảng 1,1 triệu xã viên. Với DN sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, Hà Nội hiện có trên 154.000 DN, là địa phương đứng thứ hai cả nước về số lượng DN. Trong đó có khoảng 1.150 DN hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Các DN kinh doanh nông sản thực phẩm chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, có tổng vốn kinh doanh thấp (tỷ lệ DN có vốn kinh doanh dưới 10 tỷ đồng trên 80%). Về hệ thống kênh phân phối nông sản thực phẩm, Hà Nội hiện có 425 chợ, trong đó có 15 chợ hạng một, 66 chợ hạng hai, 310 chợ hạng ba và 34 chợ chưa được phân hạng. Ngoài ra còn có 24 trung tâm thương mại, 136 siêu thị và trên 1.000 cửa hàng nông sản thực phẩm. Các hình thức cung cấp nông sản thực phẩm cho người tiêu dùng rất phong phú và đa dạng như chợ đầu mối, chợ dân sinh; siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích; cung cấp trực tiếp đến các bếp ăn tập thể; bán hàng online; bán hàng lưu động … Hiệu quả của công tác kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa caống thống bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm chưa tối ưu, cùng với đó, năng lực cán bộ còn hạn chế; công tác tập huấn, đào tạo phổ biến, tuyên truyền chính sách về an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân của vấn đề chính sách an toàn thực phẩm chưa đạt được hiệu quả cao nhất, theo ông Hiến, nguyên nhân chủ yếu là do việc rà soát còn hạn chế nên tính thống nhất trong một số quy định pháp luật chưa đảm bảo; hoạt động bàn hành các văn bản dưới luật chưa kịp thời gây khó khăn trong việc thực thi. Việc phối hợp giữa các Bộ, thuốc thuỷ sản ngành trong công tác ban hành chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt, công tác nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược vệ sinh an toàn thực phẩm; công tác quy hoạch các vùng sản xuất thực phẩm an toàn, công tác quy hoạch các vùng sản xuất thực phẩm an toàn, cảnh báo, kiểm soát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm … chưa được trú trọng đúng mức và công tác phân tích đánh giá chính sách chưa được trú trọng. Tình trạng thuốc kháng sinh y tế bị sữ dụng vào mục đích xấu như bị tuồn sang sử dụng trong chăn nuôi và thủy sản, người phát ngôn của Bộ Y tế khẳng định: trong trường hợp phát hiện ra được những trường hợp đơn vị nào có bán thuốc kháng sinh nguyên liệu sang cho nông nghiệp thuốc thuỷ sản, Bộ Y tế sẽ ngay lập tức rút giấy phép hoạt động của đơn vị ấy.
Vào chiều ngày 22/12, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Y tế đã tổ chức cuộc họp ký kết về các quy định hợp tác công tác quản lý thuoc thuy san và nguyên liệu làm thuốc dùng cho người và động vật. Trước 2012, động vật đặc biệt là động vật trên cạn thường mắc phải dịch bệnh nên gây ra những tình huống xấu gây trầm trọng là ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và vào tùy từng thời gian và từng địa điểm. Thế nhưng, từ năm 2012 đến ngày hôm nay, nguyên nhân chính là thay đổi cách tiếp cận trong công tác phòng ngừa, phòng bệnh chủ động là chính yếu, theo tiêu chí tiếp cận “Một sức khỏe” một cách hoa học nên bệnh dịch đã giảm đi rất nhiều. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để rà soát, đưa một số loại kháng sinh mà ngành nông nghiệp cấm sử dụng vào diện kiểm soát đặc biệt để quản lý chặt việc nhập khẩu, ngăn chặn việc tuồn trái phép từ y tế sang nông nghiệp. Trong năm 2016, Thanh tra của Bộ NN&PTNT đã tiến hành thanh tra giám sát đối với 15 công ty nhập khẩu phân phối nguyên liệu thuốc kháng sinh. Tất cả là các đơn vị nhập khẩu lớn với số lượng nguyên liệu thuốc kháng sinh phân phối, lưu hành chiếm khoảng 70% nguyên liệu thuốc kháng sinh được nhập khẩu. Qua các cuộc kiểm tra đã truy ra 5 công ty nhà máy nhập khẩu thuốc với mục đích kinh doanh bằng hành vi thương mại sữ dụng trái phép không đúng quy định đề ra với các loại thuốc thú y. Bình quân có đến khoảng hơn 16% thành phần nguyên liệu thuốc kháng sinh được các công ty phân phối nhập khẩu đã bị phân phối sai đối tượng không đúng qui trình. Các người mua này mua những loại thuốc này về sử dụng sai mục đích ban đầu của nhà phân phối (phân phối ngầm hoặc đưa vào Premix –thức ăn dinh dưỡng bổ sung cho các vật nuôi, nhưng lại không ghi rõ ràng các thành phần kháng sinh in trên bao bì). Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long nói rằng, bằng việc phối hợp giữa ngành y tế và ngành nông nghiệp, đã có khoảng 70% dịch bệnh được cho là lây lan từ động vật sang cho con người đã được kiểm soát thuoc thuy san , công tác an toàn thực phẩm cũng có nhiều biến chuyển tích cực trong thời gian qua. Trong khoảng thời gian tới, những đơn vị trực thuộc hai bộ sẽ phối hợp chặt chẽ nghiêm ngặt hơn trong công tác sản xuất vaccine cho thú y, trích nguyên văn như sau “Hiện nay, chúng tôi có nhà máy sản xuất vaccine H5N1 trên người, nhưng hiện nay nhu cầu ở ngoài không cao, tuy nhiên nhu cầu kiểm soát H5N1 trên động vật lại rất cao, thì chúng tôi có thể chuyển giao lại công nghệ cho Bộ NN&PTNT”, Thứ trưởng Long đã nói. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cho biết thêm hiện nay về nông nghiệp việc giám sát quản lý sử dụng kháng sinh rất rõ chặt chẽ dựa vào các văn bảncủa pháp luật là quy và đới luật. Dự kiến đến năm 2017 sẽ có các quy định cấm vận toàn bộ các loại thức ăn chăn nuôi có chứa chất kích thích sinh trưởngở động vật, những sàn phẩm có chứa hàm lượng kháng sinh phòng bệnh sẽ bị giới hạn tối đa chỉ còn có 2 loại (trong tổng số 15 loại kháng sinh được cấp phép dùng trong thức ăn vật nuôi)… Đặc biệt, trong quá trình sử dụng những sản phẩm có chứa chất kháng sinh chăn nuôi trong thú y sẽ đều phải được kê đơn khai báo rõ ràng rành mạch. Đi cùng với đó, Thứ trưởng Nguyễn Thành Long cũng đã lên kết hoạch thống nhất cùng Bộ NN&PTNT sẽ trao đổi hợp tác về kỹ thuật – công nghệ – nghiên cứu, sản xuất ra các loại vacine để hạn chế tối đa việc nhập khẩu các loại vaccine và các nguyên liệu làm vaccine từ nước ngoài nhập vào nước ta. Thứ trưởng Vũ Văn Tám cũng thống nhất việc phối hợp trên tinh thần hợp tác, ngành nông nghiệp hy vọng trong thời gian ngắn nhất tới sẽ tiến tới tự sản xuất vaccine trong nước. Giải quyết triệt để tất cả các vấn đề phát sinh trong công tác quản lý an toàn thực phẩm và công tác quản lý thuốc thủy sản thien quan, các nguyên liệu làm thuốc dùng cho người và cho động vật, những đơn vị chức năng liên quan sẽ chủ động phối hợp và trao đổi cập nhật thông tin liên tục với nhau. Các cuộc họp cấp thứ trưởng sẽ được tiến hành 6 tháng/lần và hằng năm, hai bộ trưởng sẽ có cuộc làm việc rõ hơn về nội dung này thường kỳ. sản phẩm thuốc thú y ở cần thơ được chuẩn bị bởi các động vật thủy sinh và thực vật kết hợp với một số hợp chất và chất dinh dưỡng cho sự sáng tạo của một mixup với khả năng chữa trị bệnh thông thường và nâng cao khả năng miễn dịch đối với động vật thủy sản nuôi thuỷ sản giúp sản lượng khỏe mạnh hơn và cao hon.Va trên thị trường hiện nay có rất nhiều cơ sở sản xuất chuyên môn của các loại thuốc thú y thủy sản cho nông dân bán tác giả cho lợi nhuận cao.Da có nhiều nông dân đã bị mất hoặc rơi vào nợ nần khi mua để phát triển các sản phẩm chất lượng hàng giả nước thuốc thú y.
Bởi vì động vật có rất ít và nhẹ dấu hiệu của bệnh, nếu không được điều trị kịp thời và dứt điểm sẽ dẫn đến động vật bị nhiễm bệnh và có những phong trào quần chúng rất nhieu.Chinh quá nặng lựa chọn các loạithuốc thú y thủy sản hậu giang phù hợp với từng bệnh nhân là rất quan trọng trong việc này khi nào và nếu thuốc giả đã mua không nên đối xử với tất cả các bệnh nhân không cho động vật, mà còn động vật bị nhiễm nặng và số lượng động vật bị nhiễm động vật trong một ngày càng gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với hầu hết nông dân. Do tầm quan trọng mà bạn nên chọn một địa chỉ uy tín để mua các sản phẩm thuốc thuốc thú y thủy sản bạc liêu để tránh chi tiêu tiền trên quack Thiên Quan Và công ty của chúng tôi, chúng tôi tự hào cung cấp các loại thuốc thú y thủy sản chất lượng chính hãng và cao, công ty chúng tôi tại cung cấp các cửa hàng thuốc thú y thủy sản tỉnh Hậu Giang sản phẩm .Công chúng tôi phân phối để mua sắm tuyệt vời, và giá có thể nói là rất thuận tiện, tỉnh Hậu Giang có thể nói đây là nơi mà hầu hết các tiêu thụ thuốc thú y do công ty Thiên Quân phân phối và người dân ở đây đều rất hài lòng về sản phẩm của chúng tôi không chỉ ở chất lượng mà còn về giá cả. Hơn nữa, công ty chúng tôi cũng phân phối các sản phẩm thú y thủy sản trong các cửa hàng ở tỉnh Hậu Giang và các khu vực xung quanh. Đây là một trong những lĩnh vực chính của công ty chúng tôi, bởi vì rất nhiều các sản phẩm của chúng tôi đến người tiêu dùng có chất lượng cao và đã được lựa chọn để chăm sóc động vật thủy sản san.Khi đến với chúng tôi muốn rất hài lòng với sự nhiệt tình của đội ngũ chuyên gia tư vấn đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của công ty chúng tôi. Hậu Giang là một tỉnh thuộc khu vực nội địa của đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh Kiên Giang ở phía tây, phía bắc của thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long, phía nam của tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng đông Hậu Giang có tám đơn vị hành chính, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 5 huyện. Với 76 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 khoa, 10 thành phố và 54 thành phố: Kích thước: 1,602.4 km² Dân số (2013): 773.800 người |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |